CÁ SẤU SÔNG NIN

CÁ SẤU SÔNG NIN, TÊN KHOA HỌC CROCODYLUS NILOTICUS LÀ MỘT LOÀI CÁ SẤU TRONG HỌ CROCODYLIDAE. CHÚNG LÀ LOÀI CÁ SẤU CHÂU PHI LỚN NHẤT VÀ LÀ ĐỘNG VẬT ĂN THỊT SỐ 1 TRONG KHU VỰC SINH SỐNG CỦA CHÚNG, LÀ KHU VỰC BAO GỒM PHẦN LỚN MIỀN NAM SA MẠC SAHARA VÀ ĐẢO MADAGASCAR. ĐƯỢC BIẾT ĐẾN NHƯ LÀ ĐỘNG VẬT ĂN THỊT NGƯỜI, CHÚNG VỪA BỊ GHÉT VỪA ĐƯỢC SÙNG KÍNH, ĐẶC BIỆT LÀ Ở AI CẬP CỔ ĐẠI CÁC CON CÁ SẤU ĐÃ ĐƯỢC ƯỚP XÁC VÀ TÔN THỜ NHƯ THÁNH THẦN. 

Đặc điểm

Chúng là động vật tứ chi với 4 chân ngắn và bàn chân bẹt; đuôi dài và rất khỏe; da có vảy với các hàng mai hóa xương chạy dọc theo lưng và đuôi của chúng; và các quai hàm khỏe. Chúng có màng nhầy để bảo vệ mắt của mình, và mặc dù có huyền thoại "về nước mắt cá sấu" nhưng chúng có tuyến lệ và có thể làm vệ sinh mắt bằng nước mắt.

Các lỗ mũi, mắt và tai nằm ở phần đỉnh của đầu chúng, vì thế các phần còn lại của cơ thể có thể che giấu dưới nước. Những con non có màu xám, xanh ôliu sẫm hoặc nâu, với các dải màu nằm ngang sẫm hơn tên cơ thể và đuôi. Cá sấu trưởng thành có màu sẫm hơn và các dải màu nằm ngang mờ dần đi, đặc biệt là các dải màu trên cơ thể. Lớp da dưới bụng màu vàng và được sử dụng để chế tạo da cá sấu chất lượng cao.

Cá sấu sông Nin thông thường trườn dọc theo bụng của chúng, nhưng chúng có thể "nhảy cao". Các cá thể nhỏ hơn có thể phóng nhanh, và thậm chí cả các cá thể lớn hơn cũng có khả năng tăng tốc độ đột biến đáng ngạc nhiên, đạt tới 12–14 km/h (7,5-8,5 dặm/h). Chúng có thể bơi khá nhanh bằng cách chuyển động cơ thể và đuôi của chúng theo đường hình sin, và chúng có thể duy trì kiểu chuyển động này khá lâu.

Kích thước

Cá sấu sông Nin có thể dài tới 5 m (16 ft). Cá sấu trưởng thành nặng khoảng 225 kg (500 lb), và có một số cá thể có thể nặng tới 700 kg (1.500 lb). Giống như các loài cá sấu khác, chúng là lưỡng hình theo giới, với con đực thông thường to hơn con cái khoảng 30%, mặc dù khác biệt này là nhỏ hơn so với các loài cá sấu khác, chẳng hạn cá sấu nước mặn.

Người ta cũng thông báo là có các cá thể dài tới 7 m (23 ft) và lớn hơn, nhưng điều này bị nghi ngờ do người ta thường hay thổi phồng các số liệu tổng thể. Người ta vẫn chưa biết tại sao một số cá sấu sông Nin to lớn hơn các cá sấu sông Nin khác, nhưng có lẽ là do chúng có môi trường sống thích hợp hơn. Vì thế cá sấu sông Nin ngày nay trong hoang dã khó có thể phá vỡ các kỷ lục: trước khi diễn ra các cuộc săn bắt trên quy mô lớn trong những năm thập niên 1940 và 1950, các quần thể lớn hơn sinh sống ở các môi trường đầm đất lầy có thể to lớn hơn bây giờ.

Trưởng thành và sinh sản

Con đực đạt đến độ tuổi trưởng thành sinh dục khi chúng dài khoảng 3 m (10 ft); trong khi con cái thì khi chúng dài 2 - 2,5 m (6,5 – 8 ft). Điều này diễn ra vào khoảng năm thứ 10 cho cả hai giới trong các điều kiện bình thường.

Đến mùa sinh sản, con đực hấp dẫn con cái bằng cách gầm rống, đập mõm của chúng xuống nướcr, phun nước ra từ mũi, và phát ra đủ mọi thứ tiếng động. Các con đực to hơn có xu hướng thắng thế hơn. Khi con cái bị hấp dẫn thì cặp cá sấu này cọ xát mặt bên dưới của quai hàm của chúng với nhau. Con cái đẻ trứng khoảng 2 tháng sau khi giao phối.

Việc làm ổ đẻ diễn ra trong tháng 11 hoặc tháng 12, là mùa khô ở miền bắc châu Phi, và là mùa mưa ở miền nam. Các chỗ ưa thích làm ổ là các bờ cát, bờ sông hay các chỗ khô ráo. Con cái đào hố cách bờ sông vài mét và sâu khoảng 50 cm (20 inch) và đẻ từ 25 đến 80 trứng. Số lượng trứng dao động theo từng quần thể, nhưng trung bình khoảng 50 quả. Các ổ trứng cá sấu có thể rất gần nhau.

Khi đẻ trứng xong, con cái phủ lấp trứng bằng cát và bảo vệ chúng khoảng 3 tháng của thời kỳ ấp trứng. Con đực thường nằm gần đó và cả hai sẵn sàng tán công bất kể người hay động vật nào đến gần trứng của chúng. Con cái chỉ rời ổ khi chúng cần điều chỉnh thân nhiệt bằng cách ngâm mình rất nhanh xuống nước hay tìm chỗ có bóng râm. Tuy các ổ trứng được cha mẹ chúng bảo vệ kỹ lưỡng nhưng chúng vẫn bị con người hay các loài thằn lằn (các loài bò sát thuộc chi Varanus) hay các động vật khác lấy đi khi con mẹ tạm thời vắng mặt.

Con non dài khoảng 30 cm (12 inch) khi mới sinh. Con mẹ sẽ bảo vệ chúng cho đến khi chúng được 2 năm tuổi, và nếu có nhiều ổ trứng trong cùng một khu vực, các con mẹ có thể tạo ra crèche. Trong thời gian này, các con mẹ có thể bảo vệ các con của mình bằng cách cho chúng vào trong miệng hoặc trong cổ họng. Vào cuối năm thứ hai, con non sẽ dài khoảng 1,2 m (4 ft), và sẽ dời bỏ khu vực ổ, tránh xa lãnh thổ của các con cá sấu già và lớn hơn.

Thức ăn và thói quen ăn uống

Con sơ sinh ăn côn trùng và các loài động vật không xương sống nhỏ dưới nước, và nhanh chóng thích nghi với các thức ăn từ động vật lưỡng cư, bò sát và chim. 70% thức ăn của cá sấu sông Nin là cá, mặc dù những con cá sấu lớn có khả năng ăn thịt gần như bất kỳ động vật có xương sống nào khi chúng đi uống nước, ngoại trừ chỉ có voi và hà mã trưởng thành. Chúng cũng ăn thịt hà mã non, ngựa vằn, trâu, linh dương như gnu (phát âm nu - các loài động vật thuộc chi Connochaetes, trông giống như bò), và thậm chí cả các con cá sấu khác.

Cá sấu sông Nin trưởng thành dùng thân hình và đuôi của chúng để dồn cá thành một bầy về phía bờ sông để ăn thịt chúng với những cú cắn ngang đầu chúng. Chúng cũng hợp tác để ngăn chặn cá di cư bằng cách tạo ra các cung tròn ngang trên sông. 

Khu vực sinh sống

Cá sấu sông Nin sinh sống dọc theo các con sông, trong các đầm lầy nước ngọt hoặc trong các hồ; trong một số trường hợp chúng sinh sôi ở các vùng nước lợ chẳng hạn dọc theo các cửa sông hay ở các vùng ngập lụt có đước mọc.

Chúng được tìm thấy ở các vùng của châu Phi về phía nam sa mạc Sahara, ở Madagascar và dọc theo lưu vực sông Nin. Theo dòng lịch sử thì chúng đã từng tồn tại trên quần đảo Comoros (nằm giữa Madagascar và Mozambique), nhưng ngày nay không còn. Sự vắng mặt của chúng ở nhiều nơi được quy cho là do sự mở rộng của khí hậu khô cằn và tương ứng với nó là sự suy giảm của các vùng đất ẩm ướt. Người ta gần như không còn tìm thấy chúng ở vùng đồng bằng châu thổ sông Nin hay dọc theo các vùng ven bờ biển Địa Trung Hải. Khu vực sinh sống của chúng đã bị thu hẹp chỉ còn trong vùng sinh thái nhiệt đới châu Phi.

Tình trạng môi trường

Hiện nay, người ta ước tính còn khoảng từ 250.000 đến 500.000 cá thể còn sống trong tự nhiên. Cá sấu sông Nin cũng phân bổ rộng rãi với các quần thể đã được xác định ở nhiều quốc gia ở miền đông và nam châu Phi, chẳng hạn ở Ethiopia, Kenya và Zambia. Các chương trình chăn nuôi cá sấu để lấy da đã được thực hiện với kết quả tốt trong khu vực này và thậm chí các quốc gia có hạn ngạch cho xuất khẩu cũng dịch chuyển sang việc chăn nuôi cá sấu. Năm 1993, 80.000 cá sấu sông Nin đã được sử dụng để sản xuất da, chủ yếu từ chăn nuôi ở Zimbabwe và Nam Phi.

Tình trạng của cá sấu sông Nin ở miền tây và trung châu Phi là nguy ngập hơn, dù đây là 2/3 diện tích khu vực sinh trưởng của chúng. Quần thể cá sấu sông Nin trong khu vực này có thể ít hơn vì điều kiện môi trường ít thuận lợi hơn cũng như do có sự cạnh tranh của các loài cá sấu khác cùng khu vực sinh sống như cá sấu mõm thon và cá sấu lùn, do vậy tình trạng tuyệt chủng có thể nguy cấp hơn so với các khu vực khác. Các yếu tổ bổ sung cho vấn đề này là sự suy giảm nghiêm trọng của các vùng đất ẩm ướt cũng như sự săn bắn của con người trong những năm thập niên 1970. Các chương trình khảo sát sinh thái và quản lý bổ sung là cần thiết cho vấn đề này.

Theo sách đỏ năm 1996 của liên minh bảo tồn thế giới (IUCN) tình trạng bảo tồn của cá sấu sông Nin là "ít nguy cấp". CITES liệt kê cá sấu sông Nin vào Phụ lục I (đe dọa tuyệt chủng) ở phần lớn các khu vực sinh sống của chúng cũng như vào Phụ lục II (không bị đe dọa, nhưng cần kiểm soát việc buôn bán) ở các khu vực còn lại, điều này hoặc là cho phép chăn nuôi hay thiết lập hạn ngạch hàng năm về sản lượng da thu hoạch từ cá sấu sống hoang dã.

Bình luận của bạn

facebook youtobe chat zalo googlemap